Lịch sử thiết kế Lớp tàu khu trục J, K và N

Thiết kế dự định dành cho lớp J là một sự tiếp nối nhỏ hơn so với lớp Tribal dẫn trước, tích hợp một ý tưởng mới khác biệt đáng kể so với mọi thiết kế tàu khu trục trước đây của Hải quân Hoàng gia; đó là việc áp dụng cách sắp xếp hai phòng nồi hơi. Điều này giúp làm giảm bớt chiều dài lườn tàu và cho phép có một ống khói duy nhất, cả hai làm giảm hình bóng và cải thiện góc bắn của vũ khí phòng không hạng nhẹ. Tuy nhiên, điều này cũng làm gia tăng sự mong manh, khi giờ đây có hai ngăn lớn nối tiếp nhau với hậu quả về nguy cơ một phát trúng đích chính xác sẽ làm ngập nước cả hai và làm mất toàn bộ động lực cung cấp từ nồi hơi. Việc này cũng minh họa phần nào quan điểm của Bộ Hải quân Anh về bản chất có thể bị tiêu hao của tàu khu trục. Tất nhiên là điều này trái ngược với cấu hình 3 phòng nồi hơi được sử dụng bắt đầu từ lớp tàu khu trục F vào đầu những năm 1930. Những chiếc ban đầu còn có xu hướng sử dụng hai phòng nồi hơi, vẫn là một sự cải tiến lớn so với một phòng nồi hơi. Cho dù thế nào, tàu khu trục là những con tàu nhanh với vỏ giáp mỏng, chiến đấu để sống sót dựa vào sự lẩn tránh không để bị đánh trúng. Xác suất một cú đánh trúng duy nhất đúng chỗ để có thể đồng thời loại bỏ cả hai phòng nồi hơi được xem là thấp, đủ để liều lĩnh chấp nhận nhằm đánh đổi các lợi ích của cách sắp xếp hai phòng nồi hơi.[2]

HMAS Nepal trên đường đi

Một tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật chế tạo được nhà kiến trúc hải quân Albert Percy Cole phát triển. Thay cho các đoạn khung ngang chắc chắn một cách không cần thiết, nhưng được kết nối bởi các trục dọc yếu, Cole đã thiết kế các khung dọc thật chắc chắn và các khung ngang yếu hơn.[3] Một tiến triển khác là thay đổi thiết kế mũi tàu, khác biệt so với lớp Tribal dẫn trước. Hình dáng mũi tàu dạng cắt được thay bằng một mũi tàu thắng đứng và tăng độ dốc đứng. Thay đổi này không thành công, vì các con tàu bị ướt nước nhiều phía trước. Khuyết điểm này được sửa lại kể từ lớp S trở đi bằng cách quay lại kiểu dáng trước đó.

Cho dù có sự mong manh của cách sắp xếp hai phòng nồi hơi, thiết kế này tỏ ra gọn gàng, vững chắc và rất thành công, hình thành nên thiết kế căn bản cho mọi tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia bắt đầu từ lớp O cho đến chiếc cuối cùng của lớp C vào năm 1943-1945.

Vũ khí trang bị được dựa trên những chiếc lớp Tribal, nhưng thay thế một khẩu đội QF 4,7 inch (120 mm) Mark XII (L/45) nòng đôi trên bệ CP Mk.XIX bởi một dàn ống phóng ngư lôi tăng cường. Bệ CP Mk.XIX có khả năng nâng đến góc 40° và xoay được 340°. Điểm kỳ quặc là bệ pháo ‘X’ được đặt tại vị trí với góc khuất 20° về phía đuôi, thay vì một vị trí chuyển ra phía trước hợp lý hơn, nơi góc bắn cũng bị che khuất bởi cầu tàu và cột ăn-ten. Với dàn ống phóng ngư lôi gồm 5 ống, giờ đây có thể mang theo 10 ngư lôi 21 inch (530 mm) Mark IX. Hỏa lực phòng không được giữ nguyên, bao gồm một khẩu đội QF 2 pounder Mark VIII "pom-pom" bốn nòng trên bệ Mk.VII cùng một cặp súng máy Vickers 0,5 inch bốn nòng; và trong chiến tranh còn được tăng cường thêm bằng cách thay thế súng máy bốn nòng bằng pháo tự động Oerlikon 20 mm.[4] Các con tàu này, khi hoàn tất, có một dàn hỏa lực phòng không tầm gần khá mạnh mẽ so với các tàu khu trục đương thời.[5][6] Cách sắp xếp hệ thống kiểm soát hỏa lực cũng khác biệt so với lớp Tribal, và bộ điều khiển góc cao (HA) dành riêng không được trang bị, thay vào đó chỉ có một máy đo tầm xa 12 ft (3,7 m) được bố trí phía sau tháp điều khiển hỏa lực.[7] Trong trường hợp này, máy đo tầm xa được cải biến đáng kể để điều khiển dàn pháo chính cho hỏa lực phòng không; các con tàu này được trang bị Đồng hồ Hẹn giờ Kíp nổ như Máy tính Kiểm soát Hỏa lực Góc cao.[8]

Lớp N được đặt hàng vào năm 1940 như là sự lặp lại của thiết kế lớp J, sau khi có những sự trì hoãn và chi phí cao liên quan với lớp L và M lớn hơn và phức tạp hơn. Thay đổi duy nhất đối với thiết kế là dời chỗ bệ pháo 'X' 4,7 inch đến một vị trí hợp lý hơn, với góc khuất 20° hướng về phía trước. Trong khi chế tạo, các cải biến ban đầu trong chiến tranh tương tự như với lớp J và K được áp dụng, với một cặp súng máy 0,5 inch nòng đôi vận hành bằng điện được bố trí trên sàn sau trong một thời gian ngắn trước khi được thay thế bởi pháo Oerlikon 20 mm.

Sinh hoạt tôn giáo trên chiếc HMS Javelin, tháng 8 năm 1940. Lưu ý khẩu pháo QF 4-inch Mk V phòng không ở góc trên bên trái và các quả mìn sâu ở góc dưới bên phải